Nạn nhân gián
tiếp đây chỉ có thể là thể nhân chứ không thể là pháp nhân vì các thiệt hại mà
nạn nhân gián tiếp phải chịu thông thường chì là các tổn thất về tinh thần hay
sức khoẻ, trong khi các thiệt hại mà tổ chức, pháp nhân phải chịu chỉ có thể là
các thiệt hại vê kinh tê. Các nạn nhân gián tiếp cũng có thể bị thiệt hại về
kinh tê nhưng các thiệt hại kinh tế này luôn gắn với các thiệt hại về tinh, thần
hay sức klioẻ. Đó là các chi phí phải trả cho tiền thuốc cũng như chi phí chữa
bệnh hay thu nhập mất đi do tình trạng sa sút về sức khoẻ. Đồng quan điểm này,
Bernd-Dieter Meier cho rang, cũng được coi là những người chịu các hậu quả trực
tiếp do hành vi phạm tội gây ra là những người thân thích của các nạn nhân của
các tội phạm bạo lực. Theo ông, cả những người tuy không phài người thân thích
của các nạn nhân mà chỉ là những người chứng kiến sự việc phạm tội nhưng do
hành vi phạm tội rất nghiêm trọng đã tác động, gây ảnh hưởng nặng nề đến tâm
lí, tình eton cùa những người này thì họ cũng được coi là nạn nhân.(l) Như vậy,
khái niệm nạn nhân không chỉ được mờ rộng ra các tổ chức mà còn được mở rộng ra
cả những nạn nhân gián tiếp (indirect victims). Việc xác định nạn nhân của tội
phạm bao gồm cả nạn nhân trực tiếp và nạn nhân gián tiếp có ỷ nghĩa quan trọng.
Điều đỏ trước hết giúp cho việc đánh giá chỉnh xác hậu quả thiệt hại mà hành vi
phạm tội gây ra, từ đó xác định chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạrủ tội. Ngoài ra, việc xác định nạn nhân gián tiếp còn có ý nghĩa ữong việc
xác định về bồi thường và trợ giúp cho nạn nhân của tội phạm.
Những thiệt hại mà nạn nhân là cá nhân phải chịu bao
gồm những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm hay tài sản. Nạn
nhân là tổ chức về nguyên tắc chỉ chịu những hậu quà thiệt hại về tài sản hoặc
kinh tế. Xác định thiệt hại của các nạn nhân trực tiếp đã khó khăn, nhất là thiệt
hại về tinh thần, tình cảm. Việc xác định thiệt hại của các nạn nhân gián tiếp
còn khó khăn hơn nhiều. Một hành vi phạm tội gây ra những thiệt hại gián tiếp
phải là những hành vi phạm tội có tính chất, mức độ đặc biệt nguy hiềm và do đó
có thể gây ra những ảnh hưởng, những tác động rất xấu trong xã hội. Ví dụ, hành
vi giết người bằng phương pháp ữa tấn dã man tác động rất lớn đến tâm lí, tình
cảm của người thân của nạn nhân, của những người chứng kiến hành vi phạm tội
hay những người trực tiếp cứu chữa cho nạn nhân.
Từ sự phân tích ờ ừên, có thể rút ra định nghĩa về nạn
nhân của tội phạm theo nghĩa rộng:
Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tồ chức đã
chiu thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tinh thân, tình cảm, tài sản hoặc các
quyền và lợi ích hợp pháp khác do hành vi phạm tội gây ra.
1). Xem: Bemd_Dieter Meier, Kriminologie, m
neubearbeitete Auilage, C.H. Beck MQnchen 2005. tr. 199.
Đọc thêm tại:
Đọc thêm tại:
- http://dautranhtamlytoipham.blogspot.com/2014/11/phan-loai-nan-nhan-cua-toi-pham-phan-1.html
- http://dautranhtamlytoipham.blogspot.com/2014/11/nan-nhan-cua-toi-pham-phan-2.html
Từ khóa tìm kiếm nhiều: tâm lý tội phạm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét