Vai trò của nạn nhân của tội phạm (sau đây gọi tắt
là nạn nhân) được thể hiện qua xử sự của họ trong từng tình huống phạm tội cụ thể,
ở quá trình người phạm tội đánh giá tình huống đó cũng như cân nhắc các đặc điểm
nhân thân cùa nạn nhân trước khi quyết định thực hiện hành vi phạm tội cụ thế.
Khi đánh giá về vai trò của nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm tội, không nên quan niệm sai lầm cho rằng trong các vụ án hình sự,
do nạn nhân có lỗi nên mới xảy ra hành vi phạm tội. Trong một số trường họp,
vai trò của nạn nhân là nguyên nhân làm phát sinh hoặc thúc đầy tội phạm được
thực hiện. Có the nêu một sổ trường hợp làm phát sinh, thúc đẩy tội phạm được
thực hiện có liên quan đến nạn nhân như:
+ Nạn nhân thiểu hiểu biết, nhận thức hạn chế;
+ Sự phô trương tài sản hoặc mất cảnh giác, sơ hở
trong bảo vệ tài sản;
+ Tính hám lợi hoặc tính phản trắc, bội bạc của nạn
nhân;
+ Khả năng tự bảo vệ bản thân của nạn nhân còn hạn
chế;
+ Sự dễ dãi hoặc quá tự tin với an ninh của bản
thân;
+ Nạn nhân có lối sống vô đạo đức hoặc có hành vi
trái pháp luật.
Ví dụ: Nạn nhân đã có hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng dối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội; hành vi
này dã thúc đẩy người phạm tội rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn
đến người phạm tội cỏ hành vị giết người hoặc trường hợp cỏ người do tham lam
nên đã dễ dàng trở thành nạn nhân của vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc trưởng
hợp có người do phô trương, khoe khoang tài sản quá mức nên đã trở thành nạn
nhân của vụ cướp giật tài sản...
Ở một khía cạnh khác, vai trò của nạn nhân của tội
phạm có thể là hạn chế được phần nào tội phạm xảy ra trên thực tế. Cụ thề là nếu
nạn nhân nâng cao ý thức cảnh giác, có ý thức bảo vệ tài sản cùa mình cũng như
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của bản thân thì điều này có thể đưa
đến việc từ bỏ ý định phạm tội cũng như từ bỏ việc thực hiện hành vi phạm tội của
người phạm tội. Ví dụ như hành vi luôn khoá kĩ nhà trước khi ra khỏi nhà sẽ hạn
chế nguy cơ của tội trộm cắp tài sản hoặc hành vi không đi một mình đến những
nơi vắng vẻ sẽ hạn chế nguy cơ cùa một số tội như cướp tài sản, cưỡng đoạt tài
sản, tội hiếp dâm (nếu người đó là nữ giới)...
Trong trường hợp này, người phạm tội sẽ thấy không cỏ
cơ hội hoặc khỏ có cơ hội để phạm tội, từ đó cỏ thể từ bỏ ý định phạm tội,
không thực hiện tội phạm nữa. Tuy nhiên, điều này chỉ cỏ tính chất tương đổi. cần
lưu ý là ừong một sổ trường họp ngay cà khi một người luôn có ý thức bảo vệ
tính mạng, sức khoè, tài sản... của mình nhưng họ vẫn có thể ữở thành nạn nhân
cùa tội phạm nếu người phạm tội quá ranh ma, xảo quyệt, & ngoan cổ, cố tình
thực hiện tội phạm đến cùng hoặc trong trường ’ hợp khác khi người phạm tội
không quan tâm đến nạn nhân của tội phạm là ai mà chỉ muốn đạt được mục đích của
mình, sẵn sàng bất chấp tất cả, trường hợp này, nạn nhân của tội phạm vẫn xảy
ra (trường hợp ngẫu nhiên trờ thành nạn nhân của tội phạm). Ví dụ như ờ tội khủng
bố, bọn phạm tội đã đặt bom ở nhà ga, noi tập trung nhiều người qua lại làm chết,
bị thương rất nhiều hành khách cũng như huỷ hoại tài sản của những người đó.
Trường họp này, nhiều người đã ngẫu nhiên trờ thành nạn nhân của tội phạm, người
phạm tội không quan tâm đến nạn nhân là ai, sẵn sàng giết chết hoặc làm bị
thương thường dân bất kì để đạt được mục đích chính trị của mình.
Đọc thêm tại:
Đọc thêm tại:
- http://dautranhtamlytoipham.blogspot.com/2014/11/nghien-cuu-nguoi-pham-toi-trong-toi.html
- http://dautranhtamlytoipham.blogspot.com/2014/11/vai-tro-cua-nan-nhan-cua-toi-pham-trong.html
Từ khóa tìm kiếm nhiều: tâm lý tội phạm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét