Quá trình hình thành, phát triển của tội phạm học
chính là quá ừình ra đời, phát triển các thuyết, các trường phái khác nhau giải
thích về nguyên nhân của tội phạm. Mỗi thuyết, ơường phái đỏ đều có con đường
riêng (cách tiếp cận riêng) nghiên cứu về tội phạm nhưng cũng có thể có sự kế
thừa ít nhiều quan niệm cùa người đi trước và tựu điung lại các thuyết, các ừường
phái đó đều cổ gắng giải thích nguyên nhân của tội phạm và đưa ra biện pháp
phòng ngừa tương ứng.
Việc nghiên cứu các thuyết, các ừường phái ở cảc
giai đoạn lịch sử khác nhau có ý nghĩa vỏ cùng quan trọng trong nghiên cứu tội
phạm học vì giúp đảnh giả được những thành tựu, những hạn chế cùa các thuyết đề
tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện việc giải thích về tội phạm cũng như xây dựng
các biện pháp phòng ngừa tội phạm sát hợp.
Có rất nhiều thuyết trong tội phạm học giài thích về
nguyên nhân của tội phạm nhưng nhìn chung có thể chia thành bốn nhom cơ bản với
các cách tiếp cận khác nhau. Đó là:
a) Trường phái tội phạm học cồ điển với cách tiếp cận
dựa trên nền tảng triết học “thời kì khai sáng;
b)Các thuyết
sinh học với cách tiếp cận dựa trên nền tảng của lí thuyết sinh học;
c)Các thuyết tâm lí với cách tiếp cận dựa trền nền tảng
n thuyết tâm lí;
d)Các thuyết xã hội học với cách tiếp cận dựa trên nền
tảng của lí thuyết xã hội học. Phải thừa nhận rằng các thuyết khi lí giải về
nguyên nhân của tội phạm đều có nhân tổ họp Iỉ nhẩt định, tuy nhiên, từng học
thuyết đều có mặt mạnh và hạn chế riêng. Do vậy, không vì hạn chế của học thuyết
nào đỏ mà chúng ta phủ nhận sự đóng góp của học thuyết đó đối với sự phát triển
của tội phạm học.
Trường
phái học cổ điển
Thời gian: Từ những năm 1700 đến năm 1880.
Học giả tiêu biểu: Cesare Beccaria, Jeremy Bentham.
1.Quan
điểm của Cèsare Beccaria
Cesare Beccaria (1738 - 1794) có tên Italia là
Cesare Bonesana sinh ra ở Milan, Italia. Cuốn “Ve tội phạm và hình phạt” (1764)
của ông là công trình đánh dấu bước ngoặt cho sự ra đời của trường phái tội phạm
học cổ điển.
Giải thích về nguyên nhân của tội phạm, Cesare
Beccaria cho I rằng nguyên nhân của tội phạrn là tự do ý chí, sự lựa chọn của từng cá nhân. Luận điểm này của ông chịu ảnh
hưởng tư tưởng của thời kì khai sáng, đó là “íự do ý chí và suy nghĩ lỉ trí được
thừa nhận là có vai trò quyết định đến hành vi của con người”.
Từ đó, ông đề cao vai trò của hình phạt trong phòng
ngừa tội phạm. Để hình phạt có hiệu quà trong phòng ngừa tội phạm thì:
Hình phạt phải
tương xứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm. Nếu hình phạt ngang bàng được áp
dụng đối với hai tội phạm đã gây thiệt hại cho xã hội ờ những mức độ khác nhau
thì không cỏ gì cản trở con người tiếp tục thực hiện tội phạm nghiêm trọng hơn
mỗi khi chúng đem lại nhiều lợi ích hơn;
Hình phạt cần phải căn cứ vào mức độ nguy hiểm cùa
hành vi phạm tội chứ không phải là con người phạm tội. Các tội phạm chỉ có thể
được đánh giá bởi những thiệt hại gây ra cho xã hội. Con người là chù thể của tội
phạm. Bởi vậy, mức độ nguy hiểm của tội phạm phụ thuộc vào mục đích của người
phạm tội;
Hình phạt cần áp dụng nhanh chóng thì khi đó nó có
giá trị phòng ngừa tốt nhất. Hình phạt kịp thời sẽ hiệu quả hơn bởi vì nếu khoảng
thời gian giữa tội phạm và hình phạt càng ngắn thì sự kết họp giữa hai ý tưởng
về tội phạm và hình phạt càng mạnh mẽ và dứt khoát hơn;
Mọi ngưòi cần được đối xử bình đẳng. Hình phạt áp dụng
đối với nhà quý tộc cần phải không cỏ sự khác biệt so với hình phạt đổi với những
thành viên thuộc tầng lớp dưới xã hội.
Bên cạnh đó, ông cho rằng, cách tốt nhất để phòng ngừa
tội phạm là luật phải được quy định đơn giản và rõ ràng, khen thưởng người có đạo
đức tốt và cải thiện nền giáo dục. Đồng thời, cần phải cải thiện hệ thống tư
pháp hình sự theo hướng hạn chế tính hà khắc và đẩy mạnh việc đối xử nhân đạo đối
với tù nhân. Đồng thời, ông tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả cùa hình phạt tử hình
trong phòng ngừa tội phạm.
Ngày nay, các nhà tội phạm học vẫn coi tư tưởng của
ông trong cuốn “Tội phạm và hình phạt” là tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Đọc thêm tại:
Đọc thêm tại:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét