Những phân tích trên cho thấy đã có đủ cợ sở thực tiễn
khoa học để khẳng định tội phạm học có đối tượng nghiên cứu độc lập, đó là tội
phạm hiện thực với ý nghĩa lậ hiện tượng xã hội số lớn vạ cập hiện tượng, quá
trình liên quan-trực tiếp đến tội phạm hiện thực thuộc về nguyên nhân cùa tội
phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm thể hiện sự phản ứng xã hội đối với tội phạm
hiện thực. Tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát
tội phạm hiện thực cũng cộ thể được coi như đối tượng nghiên cứu cụ thể hay bộ
phận của tổng thể đối tượng nghiên cứu của tội phạm học mà trước tiên thuộc về
nó là hiện thực xã hội bao quanh các hiện tượng xầ hội ỉà tội phạm, ơiữa chúng
có mối ỉiên hệ chặt chẽ với nhau.
Trong một số định nghĩa về tội phạm học đã nêu đã đề
cập đến tính mục đích của tội phạm học. Tội phạm học nghiên cứu tội phạm hiện
thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm hiện thực là nhằm
mục đích phòng ngừa tội phạm. Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học đã
cho thấy, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các đối tượng nghiên cứu của tội
phạm học luôn hướng tới và phục vụ cho mục đích phòng ngừa tội phạm.
Những viện dẫn và phân tích nêu trên cũng đã làm rõ
những đặc điểm khoa học cùa tội phạm học. Tội phạm học không phải là khoa học
đơn ngành mà là khoa học liên ngành và là khoa học thực nghiệm.(1) Những tri thức
khoa học hợp thành tội phạm học được đúc kết từ các kết quà nghiên cứu 1 là những
kinh nghiệm từ quan sát, tìm hiểu về tội phạm ừong thực tế như là hiện tượng xã
hội, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm - không thể không dựa vào
các ngành khoa học thực nghiệm liên quan đến con người và xã hội, đặc biệt là
tâm lí học và xã hội học. Đúng như một học giả đã khẳng định: Tội phạm học
không thể xuất hiện mà không có các khoa học liên quan.(2)
Trên cơ sở kế thừa được quan niệm truyền thống mà vẫn
phù hợp với sự phẩt triển của tội phạm học hiện đại và đảm bảo sự
(1).Được coi là những khóa học thực nghiệm hay khoa
học kinh nghiệm là những ngành khoa học mả trong đỏ những đổi tượng và những sự
việc của thế giới, ví dụ như các hành tinh, động vật, các phương thức hành vi
cùa con người được nghiên cứu qua thực nghiệm (thí nghiệm), quan sát lĩnh vực
hay thăm dò ý kiến. Xem: Phán biệt giữa các khoa học thực nghiệm và các khoa học
không thực nghiệm, http://de.wikipedia.org/wiki/Empirie
(2). Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine
praxisorìeiuìerte Ein/uehrung mit Beispielen, Sđd., tr. 9.
Thống nhất tương đối với các quan niệm khác nhau hiện
nay về tội phạm học, có thể đưa ra định nghĩa về tội phạm học như sau:
Tội phạm học là khoa học liên ngành, thực nghiệm
nghiên cứu về tội phạm (hiện thực), nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội
phạm nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm.
Tóm lại, định nghĩa nêu trên đã bao quát các đặc điểm
cơ bản của tội phạm học. Thứ nhất là đặc điểm về đối tượng nghiên cứu độc lập
cùa tội pham học, bao gồm tội phạm hiện thực, nguyêrr nhân của tội phạm hiện thực
và kiểm soát tội phạm hiện thực; Thứ hai là đặc điểm về khoa học liên ngành cửa
tội phạm học; Thứ ba là đặc điểm về khoa học thực nghiệm hay cũng có thể gọi là
đặc đĩểm về phương pháp nghiên cứu thực nghiệm của tội phạm học. Thứ tư là đặc
điếm về mục đích phòng ngừa tội phạm của tội phạm học. Đây là những đặc điểm để
phân biệt tội phạm học với các ngành khoa học khác, đặc biệt là các khoa học có
liên quan đến tội phạm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét